Mầm Mống Thần Linh

Nơi Lăo Giáo

 

 

N

h́n sang phía Lăo Trang, ta cũng thấy rằng các Ngài chủ trương trong tâm c̣n có Đạo, có Trời...

 

Tưởng ḿnh sống xa rời Thượng Đế, xa Thái Cực, Chân Như, dù là một phút giây, cũng là điều lầm lỗi lớn của nhân quần từ trước tới nay.

 

Tính Mệnh Khuê Chỉ (quyển Hanh, trang 11a), một quyển sách Đạo Lăo có câu:

 

Yểu yểu, minh minh khai chúng diệu,

Hoảng hoảng, hốt hốt bảo châu khiếu,

Liễm chi tiềm tàng nhất lạp trung,

Phóng chi, di mạn hợp lục biểu.

 

Phỏng dịch:

 

Yểu yểu, minh minh chúng diệu khai,

Phảng phất hư vô vẫn một Trời.

Tiềm tàng nằm gọn trong trần cấu,

Phóng phát bao trùm khắp chốn nơi!

 

Lại có thơ (cùng nguồn trên)

 

Tá vấn chân nhân hà xứ lai?

Ṭng tiền linh chỉ tại linh đài!

Tích niên vân vụ vân già tế,

Kim nhật tương phùng đạo nhỡn khai!

 

Phỏng dịch:

 

Chân nhân ướm hỏi tới từ đâu?

Tâm khảm tiềm tàng sẵn đáy sâu,

Thủa trước linh đài vân vụ phủ,

Ngày nay chợt tỉnh, thấy bên nhau!

 

Tâm th́ ở trong ṿng tương đối, biến thiên, hữu vi, hữu tướng. Đạo th́ tuyệt đối, hằng cửu, vô vi, vô tướng, bất khả tư nghị. Muốn tu tŕ, dĩ nhiên là phải xây căn cơ trên Đạo, phải hiểu thấu đáo về Đạo, phải siêu lên trên cơi hữu vi, hữu tướng, nhân vi, nhân tạo, mà đi vào cơi Vô vi, Tuyệt đối.

 

Có vậy mới hiểu tại sao Kinh Kim Cương lại dạy phải vượt lên trên THANH SẮC:

 

‘Nhược dĩ SẮC kiến Ngă,

Dĩ ÂM THANH cầu Ngă,

Thị nhân hành tà đạo,

Bất năng kiến Như Lai.

 

Dịch:

 

Nếu lấy SẮC nh́n Ta,

Lấy ÂM THANH t́m Ta,

Kẻ ấy đi tà đạo,

Không thể thấy Như Lai.

 

Cũng một lẽ, đạo Lăo khuyến cáo đừng để cho âm thanh và màu sắc làm choáng lộn tâm thần.

 

Đạo Đức Kinh chương XII viết:

 

Sắc năm mầu làm ta choáng mắt,

Thanh năm cung ngây ngất lỗ tai.

Năm mùi tê lưỡi nếm sai,

Ruổi rong săn bắn, ḷng người đảo điên.

Của hiếm có ngả nghiêng nhân đức,

Khinh giác quan, giữ chắc ḷng son,

Thánh nhân hiểu lẽ mất c̣n.

 

Trang Tử c̣n có những lời lẽ mănh liệt hơn nhiều: Trong chương Biền Mẫu (Nam Hoa Kinh), ông viết:

 

Đem nhă nhạc đảo điên tính khí,

Sư khoáng kia nào quí chi đâu.

Tính Trời lệ thuộc năm mầu,

Ly Chu ta cũng trước sau coi hèn...

Chính v́ coi Đạo là căn cốt muôn loài, nên ngay đầu sách Đạo Đức Kinh, Lăo Tử đă dành một chương nói về Đạo:

 

Hóa Công hồ dễ đặt tên,

Khuôn thiêng hồ dễ mà đem luận bàn.

Không tên, sáng tạo thế gian,

Có tên, là mẹ muôn vàn thụ sinh.

Tịch nhiên cho thấy uy linh,

Hiển dương cho thấy công tŕnh vân vi,

Hai phương diện, một Hóa Nhi,

Huyền linh khôn xiết, huyền vi khôn lường,

Ấy là chúng diệu chi môn,

Cửa thiêng phát xuất mọi nguồn huyền vi.

 

Trang Tử, chính v́ thấy rằng trong tâm ḿnh c̣n có Đạo, có Trời, có Bản thể bất sinh, bất tử, nên đă nói trong thiên Tề vật luận, Nam Hoa Kinh:

 

Ta và trời đất cùng sinh,

Ta và muôn vật sự t́nh chẳng hai.

 

(Thiên địa dữ ngă tịnh sinh,

Nhi vạn vật dữ ngă duy nhất).

 

Âm Phù Kinh viết:

 

Thiên tính nhân dă
Nhân tâm cơ dă
Lập Thiên chi đạo,
Dĩ định nhân giă
Dịch:

 

Thiên tính là Người,

Nhân tâm là máy.

Lập ra Thiên đạo,

Định mục phiêu Người.

 

Trong bài tựa quyển Huyền Diệu Cảnh của đức Lă Đồng Tân ta thấy Thiên đạo, Nhân đạo được định nghĩa như sau:

 

Thế nào là Thiên đạo? Thiên đạo là tu tính, dưỡng mệnh, vượt t́nh trạng con người mà hợp với Trời. Thế nào là Nhân đạo? Nhân đạo là giữ tṛn ngữ luân, ngũ sự (giữ trọn nhân luân).

 

Tóm lại đạo Lăo cũng cho rằng con người có Thiên tính, và đắc đạo là HỢP THIÊN. Theo đạo Lăo, lúc mới đầu con người c̣n mê muội, chưa biết được rằng Đạo, hay Trời đă ở sẵn trong tâm, nên phải ‘tầm sư, học Đạo’, ‘tầm sư cầu Đạo’. Khi đă chứng Đạo, sẽ thấy được rằng Đạo đă ở sẵn trong ḷng ḿnh. Thế là Đắc Đạo, mà Đắc Đạo là Đắc Thiên. Khi đă biết rằng Đạo là căn cốt của ḿnh, tự nhiên con người sẽ trở nên hồn nhiên, tiêu sái. Người xưa khen là có Tiên phong, Đạo cốt. Đối với người Trung Hoa Đạo là Thiên, là Thần…

 

Cho nên, khi phiên dịch câu Phúc Âm thánh Gioan: ‘Đầu trước hết có Ngôi Hai, Ngôi Hai ở cùng Thiên Chúa và Ngôi Hai là Thiên Chúa’, người Trung Hoa đă viết: ‘Thái sơ hữu Đạo, Đạo dữ Thần đồng tại, Đạo tức thị thần’

 

Thánh hiền mong muốn sống một đời sống huyền hóa với đất trời, mặc cho trần thế dèm pha, chỉ trích. Trang Tử viết đại khái trong thiên Tề Vật Luận, Nam Hoa Kinh như sau:

 

Hồn ta hỡi, hăy tiêu diêu,

Tung đôi cánh rộng, khinh phiêu chín tầng…

Hăy tung cánh chim bằng muôn dặm,

Cưỡi gió mây bay thẳng về Nam,

Bay về quê cũ giang san,

Hồ trời vùng vẫy, miên man thỏa t́nh.

Mặc nhân thế rẻ khinh đàm tiếu,

Óc phàm phu sao hiểu Chí Nhân…

Vùi thân trong chốn hồng trần,

Họ như ve sẻ, qua lần tháng năm,

Tầm mắt hẹp mà thân ti tiểu,

Kiếp phù du nào hiểu chi đâu,

Thân lươn bao quản lấm đầu

Cốt sao cho khỏi cơ cầu th́ thôi,

Phận sâu bọ đành rồi sâu bọ,

Thân nấm rêu, nào rơ tuần trăng,

Ve sầu nào biết thu xuân,

Minh linh ngoài mấy vạn năm hay ǵ?…

Như Bành tổ có chi là thọ,

Mà chúng nhân quá cỡ tán dương,

Người vui tước phận lư hương,

Người vui mũ áo xênh xang trị v́.

Ḱa Liệt tử thích đi mây gió,

Cưỡi gió mây đây đó thỏa ḷng.

C̣n ta khinh khoát vô cùng,

Sánh vai nhật nguyệt, vẫy vùng khinh phiêu,

Quên ḿnh, quên hết mọi điều,

Quên tên, quên hết bao nhiêu công tŕnh.

Sống đời sống thần linh sảng khoái,

Như Hứa Do chẳng đoái công hầu,

Uống ăn nào có chi đâu,

Mà lo với lắng, cho rầu ḷng ai.

Ta chẳng nói những bài phách lối,

Lời của Ta, đâu nỗi hoang đường,

Lời ta minh chính, đàng hoàng,

V́ người không hiểu, trách quàng, trách xiên.

Kẻ mù tối, sao xem mầu sắc,

Người điếc tai, sao bắt âm thanh.

Cho nên những kẻ vô minh,

Tối tăm, ù cạc, ngọn ngành hiểu chi,

Sao biết được uy nghi, sang cả,

Của những người huyền hóa siêu linh,

Đất trời gồm tóm trong ḿnh,

Lồng vào muôn vật, sự t́nh nào hai,

Dẫu sóng cả ngất trời không đắm,

Dẫu nóng nung, cũng chẳng làm sao.

Trời mây mặc sức tiêu dao,

Cho dù Nghiêu, Thuấn dễ nào sánh vai

 

Thất Chân nhân quả có thơ:

 

Thân ngoại cầu tiên, lộ tửu soa,

Thủy trung nguyệt ảnh, kính trung hoa.

Tiên thiên diệu lư, quân tri phủ?

Chỉ tại nhất tâm, tiện khả khoa’

 

Dịch:

Thân ngoại cầu tiên ắt lạc đường,

Ṃ trăng đáy nước, hái hoa gương,

Tiên thiên, diệu lư hay chăng tá,

Chỉ tại tâm điền, há viễn phương.

 

Trong Tiên Học Diệu Tuyển có ghi câu thơ của Mă Đơn Dương tặng Triệu Quang:

 

‘Thành tiên chỉ thị Thần quang,

Thiên cung vô dụng xú b́ nang’

 

Dịch:

 

Thành tiên âu chỉ cốt Thần quang,

Thiên cung xá kể cái xác phàm!

 

Trang Tử viết:

 

‘Nh́n vũ trụ từ trong phân biệt,

Thời mật gan, Sở Việt khác xa.

Từ trong Đồng Nhất nh́n ra,

Muôn loài muôn vật cũng là một thôi’

 

Tự kỳ dị giả thị chi,

Can, đởm, Sở, Việt dă;

Tự kỳ đồng giả thị chi,

Vạn vật giai nhất dă.

 

(Nam Hoa Kinh, Thu Thủy 5)

 

Tóm lại, thánh hiền, v́ tin có Thiên tính, có Phật tính, nên khi đi vào tâm là để t́m Đạo, t́m Trời; khi đi ra ngoài xă hội, nhân quần, là dem nhân ái chan ḥa, nhuần được khắp chúng sinh, vạn hữu. Cái điều mà các Ngài muốn rao truyền, chính là con người có Bản thể Thượng đế; con người không bao giờ có thể sống xa rời Thượng Đế. Nếu sống phối hợp với Thượng Đế. chúng ta sẽ được khinh phiêu hạnh phúc. Nếu sống xa rời Thượng Đế, chắc chắn rằng chúng ta sẽ sống trong lo âu, khắc khoải.

Đạo Lăo có câu:

 

Tâm dữ Đạo hợp,

Tắc tạo Bồng lai,  Tam Đảo,

Tâm dữ Đạo ly,

Tắc tạo lục đạo, tam đồ

 

Tạm dịch:

 

Ḷng người mà hợp ḷng Trời,

Ấy là Tam Đảo, Bồng Lai hẳn rồi,

Ḷng người mà tách ḷng Trời,

Tam đồ, lục đạo, lôi thôi, khốn nàn.

 

 

 

(Phần Mầm Mống Thần Linh Nơi Lăo Giáo trên đây

[song các chi tiết được sắp xếp theo nội dung hợp với bài viết này]

được trích nguyên văn từ bốn tài liệu rời của Nhân Tử Nguyễn Văn Thọ:

 Quan Niệm Tam Tài Với Con Người, Bản Thể Luận và Hiện Tượng Luận,

Con Đường Giải Thoát Cơi Tiên Cơi Tục)